Itraconazole 100mg

Itraconazole 100mg Dược động học

itraconazole

Nhà sản xuất:

Mekophar
Thông tin kê toa chi tiết tiếng Việt
Dược động học
Nồng độ đỉnh trong huyết tương của itraconazol đạt được trong khoảng 2 – 5 giờ sau khi uống thuốc. Do đặc tính động học không tuyến tính, itraconazol tích lũy trong huyết tương khi sử dụng đa liều. Trạng thái nồng độ không thay đổi thường đạt được sau khoảng 15 ngày, với nồng độ đỉnh 0,5 μg/mL; 1,1 μg/mLvà 2,0 μg/mL tương ứng với sau khi uống liều 100 mg/ngày, 200 mg x 1 lần/ngày và 200 mg x 2 lần/ngày. Thời gian bán hủy hoàn toàn của itraconazol thường trong khoảng 16 đến 28 giờ sau khi sử dụng đơn liều và tăng lên 34 đến 42 giờ sau khi sử dụng liều lặp lại. Ngay khi ngưng điều trị, nồng độ itraconazol trong huyết tương giảm xuống đến nồng độ hầu như không còn phát hiện được trong 7 đến 14 ngày, tùy thuộc vào liều và thời gian điều trị.
Hấp thu: Itraconazol được hấp thu nhanh chóng sau khi uống, nồng độ đỉnh trong huyết tương của thuốc không đổi và đạt được trong vòng 2 – 5 giờ sau 1 liều uống. Sinh khả dụng của itraconazol vào khoảng 55%, sinh khả dụng đường uống đạt tối đa ngay sau khi ăn no.
Phân bố: Hầu hết itraconazol liên kết với protein huyết tương (99,8%) chủ yếu là với albumin của huyết tương (99,6% ở dạng chất chuyển hóa hydroxyl). Nó có ái tính mạnh với lipid. Chỉ có 0,2% itraconazol tồn tại dưới dạng tự do trong huyết tương. Itraconazol phân bố khắp toàn bộ cơ thể (> 700 lít), phân bố nhiều ở các mô. Nồng độ ở phổi, thận, gan, xương, dạ dày, lách và cơ cao gấp 2 – 3 lần nồng độ tương ứng ở huyết tương và gấp 4 lần phân bố ở mô sừng, đặc biệt ở da. Nồng độ trong dịch não tủy thấp hơn nhiều trong huyết tương, nhưng hiệu quả chống nhiễm khuẩn có ở dịch não tủy.
Chuyển hóa: Itraconazol được chuyển hóa ở gan thành nhiều chất chuyển hóa. Các nghiên cứu in vitro đã cho thấy CYP3A4 là men chuyển hóa chính có liên quan đến sự chuyển hóa của itraconazol. Chất chuyển hóa chính là hydroxyl-itraconazol có hoạt tính kháng nấm in vitro tương đương itraconazol, nồng độ đáy của chất chuyển hóa này trong huyết tương gấp 2 lần itraconazol.
Thải trừ: Itraconazol được thải trừ chủ yếu dưới dạng chất chuyển hóa không hoạt tính trong nước tiểu (35%) và phân (54%) trong vòng 1 tuần sau khi sử dụng một liều dung dịch uống. Sự thải trừ qua thận của itraconazol và chất chuyển hóa có hoạt tính hydroxyl-itraconazol thấp hơn 1% so với liều tiêm truyền tĩnh mạch. Dựa trên một liều thuốc đánh dấu phóng xạ đường uống, sự thải trừ qua phân của thuốc không chuyển hóa trong khoảng từ 3% đến 18% liều dùng. Sự tái phân phối của itraconazol từ tổ chức sừng là không đáng kể, sự bài tiết của itraconazol từ tổ chức này liên quan đến sự tái sinh của biểu bì. Ngược lại với trong huyết tương, nồng độ thuốc tồn tại ở da khoảng 2 – 4 tuần sau khi kết thúc điều trị 4 tuần và ở tổ chức sừng của móng, nơi mà itraconazol có thể phát hiện rất sớm chỉ 1 tuần sau khi bắt đầu điều trị, nồng độ thuốc tồn tại thêm ít nhất là 6 tháng ở móng sau khi kết thúc điều trị 3 tháng.
Register or sign in to continue
Asia's one-stop resource for medical news, clinical reference and education
Already a member? Sign in
Register or sign in to continue
Asia's one-stop resource for medical news, clinical reference and education
Already a member? Sign in